Ngày
5/6/1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng,
Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc, bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước, với
hành trang ban đầu là sự nhiệt huyết cứu nước, trí tuệ thiên tài, nhãn
quan chính trị sắc bén và được kế thừa các giá trị yêu nước truyền thống
của dân tộc Việt Nam. 30 năm sau, ngày 28/1/1941 (tức ngày mùng hai tết
Tân Tỵ), Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt qua mốc 108 (nay là cột mốc 675) biên giới Việt Nam - Trung Quốc về đến Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
Trong
cuộc hành trình dài đằng đẵng ấy, Nguyễn Tất Thành đã vượt qua ba đại
dương, bốn châu lục và gần ba mươi nước để tìm con đường cứu nước đáp
ứng yêu cầu: cứu nước đồng thời cứu được dân. Cuối cùng, người thanh
niên yêu nước ấy đã tìm được và đi theo con đường cách mạng vô sản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Trải qua bao khó khăn thử thách với nhiều sự kiện
quan trọng ghi dấu ấn của Người cũng chính là những dấu ấn lớn của cách
mạng Việt Nam.

Khởi
hành từ ngày 5/6/1911, tàu đến Mác-Xây ngày 6/7/1911, dọc đường Nguyễn
Tất Thành qua các cảng Côlômbô (nay là Xrilanca), Poxait (Ai Cập), rồi
đến một số nước ở châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913, Người đến nước Anh,
tham gia nhiều hoạt động và trở lại nước Pháp vào cuối năm 1917.
Đầu
năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Chiến tranh thế
giới thứ nhất kết thúc, ngày 18/6/1919, đại biểu các nước đế quốc tham
gia chiến tranh họp Hội nghị ở Véc xây (18-21/6/1919) để giải quyết các
vấn đề của chiến tranh. Khi đó, cũng như nhiều người, nhiều dân tộc
“từng bị mê hoặc bởi những tuyên bố rộng rãi về quyền tự quyết của các
dân tộc” của Tổng thống Hoa Kỳ, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo bản Yêu sách của nhân dân An Nam
(bản Yêu sách tám điểm) gửi tới Hội nghị Véc xây. Bản Yêu sách tám
điểm, trong có điểm nổi bật là “đòi Chính phủ các nước họp Hội nghị phải
thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt
Nam”. Dưới bản Yêu sách tám điểm ký tên Nguyễn Ái Quốc, tuy không được
chấp nhận nhưng Bản yêu sách của Người được xem là điểm khởi đầu của một
hành trình đấu tranh cách mạng và điểm khởi đầu đó đã gây chấn động
nước Pháp và thế giới. Sau đó, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển thể bản Yêu sách
tám điểm qua thể thơ lục bát và song thất lục bát với tên gọi Việt Nam yêu cầu ca.
Thẻ đảng viên Đảng Cộng sản Pháp của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội
Pháp. Tại đây, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt
Nam. Sau khi trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục lao động
kiếm sống và hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc các thuộc
địa, phong trào công nhân, học tập, nghiên cứu lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới. Đặc
biệt, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Người đã nhận thấy “chỉ có
cách mạng Nga là thành công đến nơi” vì đem lại quyền lợi cho đông đảo
quần chúng công nông. Nguyên nhân chính đưa tới sự thành công của cách
mạng Tháng Mười Nga là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Bônsêvích do Lênin
đứng đầu.
Từ
năm 1921-6/1923, Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội
Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và lần thứ II của
Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua, làm Chủ nhiệm
kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ. Ngày 13/6/1923, Người rời nước Pháp
sang Đức và thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô) ngày 30/6/1923.
Thẻ
đại biểu tư vấn Đại hội V Quốc tế Cộng sản của đồng chí Nguyễn Ái Quốc
năm 1924. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố Hồ Chí
Minh)
Từ
tháng 7/1923-10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong
trào cộng sản quốc tế, bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc
địa. Người hoạt động trong Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế
Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều
sách báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp;
học tập tại trường Đại học phương Đông; tham gia Đại hội lần thứ V Quốc
tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng
sản.
Tháng
11/1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tại
đây, vào tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên
(21/6/1925) - tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Kách mệnh,
được xuất bản vào năm 1927; phát hành với số lượng lớn về Việt Nam. Nội
dung cuốn sách đã khẳng định: Cách mạng trước tiên cần có Đảng Cách
mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công. Cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy. Do đó, cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi
trước tiên phải xây dựng được một Đảng cách mạng vững mạnh. Đảng phải
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cốt, trong Đảng ai cũng phải học, ai cũng
phải theo. Nguyễn Ái Quốc còn phát hiện ra rằng, chủ nghĩa yêu nước,
tinh thần dân tộc là động lực lớn của phong trào giải phóng dân tộc và
Đảng Cộng sản là đội tiền phong cách mạng của giai cấp và dân tộc.
Trường
Đại học Quốc tế Lênin số 25, Phố Voroxkova, Moscow – nơi đồng chí
Nguyễn Ái Quốc học từ năm 1934 – 1936. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh -
chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa
hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức
(11/1927) rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội đồng
liên đoàn chống đế quốc (12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy Sỹ, sang
Italia. Tháng 7/1928, Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại
Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ
ngày 6/1-7/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc
chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một
Đại hội thành lập Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm
của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ sự
trưởng thành về nhận thức chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam, chấm dứt thời kỳ bế tắc về đường lối, khủng hoảng về
lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
Từ
năm 1930-1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ
đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc
đã tổ chức xây dựng được đường dây liên lạc quốc tế, đặc biệt là các
nước Đông Nam Á với mục đích tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân,
tổ chức các nước trên thế giới, xây dựng lực lượng hậu thuẫn cho cách
mạng Việt Nam thắng lợi.
Tháng
6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932,
Người được trả tự do; những năm 1934-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Thượng
Hải đi Vlađivôxtốc (Liên Xô) vào học tại Trường Quốc tế Lênin, sau đó
công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Trong thời
gian này, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi là P.C.Lin) được Ban Chỉ huy ở ngoài
và Ban Trung ương của Đảng chỉ định là đại diện của Đảng ở Quốc tế Cộng
sản và được cử đi dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản vào ngày 31/3/1935.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại
Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị
về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28/1/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc trở về nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà
Nội) ngày 2/9/1945. (Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh - chi nhánh Thành phố
Hồ Chí Minh)
Chặng
đường 30 năm bôn ba của Nguyễn Ái Quốc, vừa tìm đường cứu nước, vừa
kiên trì chiến đấu đầy bản lĩnh và trí tuệ kiên định bảo vệ con đường
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam. Thành quả vĩ đại của
cuộc hành trình 30 năm đó thể hiện ở chỗ: Những câu hỏi lớn nhất đối
với dân tộc Việt Nam, với cách mạng Việt Nam, mà trước đó chưa ai tìm
được câu trả lời, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải đáp sáng tỏ, đầy sức
thuyết phục.
Năm
1942, Nguyễn Ái Quốc lấy tên mới là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung
Quốc với tư cách là đại biểu của phong trào Việt Minh và đại diện của
Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội quốc tế chống xâm lược. Cũng trong năm
này, Nguyễn Ái Quốc bị bắt tại phố Túc Vinh với lý do giấy tờ tùy thân
đã quá hạn sử dụng.
Ngày 9/8/1944, Hồ Chí Minh được trả tự do, Người rời Liễu Châu trở về hoạt động tại Pác Bó, Cao Bằng.
Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh gửi một bức thư cho Võ Nguyên Giáp; đó là Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
Ngày 18/8/1945 Hồ Chí Minh viết Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa gửi quốc dân, đồng bào.
Sau
khi phát động Tổng khởi nghĩa các tỉnh thành trong cả nước đồng loạt
khởi nghĩa: ngày 19/8/1945 tổng khởi nghĩa thành công ở Hà Nội; ngày
23/8 ở Huế; ngày 25/ 8 ở Sài Gòn. Chỉ trong một thời gian ngắn, cuộc
Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước thành công, chính quyền
cách mạng về tay nhân dân.
Ngày
2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chính phủ Cách Mạng lâm
thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố nền độc lập của dân tộc Việt Nam
trước đồng bào cả nước và nhân dân thế giới.
Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách
mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã
trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Là hội tụ
của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình
thế, chọn thời cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm
chiến lược.